CUỐN 14 TEST 2

CUỐN 14 TEST 2

Size
Price:

Read more »

 

In this series of lectures about the history of weather forecasting, I’ll start by examining its early history – that’ll be the subject of today’s talk.

Ok, so we’ll start by going back thousands of years. Most ancient cultures had weather gods, and weather catastrophes, such as floods, played an important role in many creation myths. Generally, weather was attributed to the whims of the gods, as the wide range of weather gods in various cultures shows. For instance, there’s the Egyptian sun god Ra, and Thor, the Norse god of thunder and lightning. Many ancient civilisations developed rites such as (Q31dances in order to make the weather gods look kindly on them.

But the weather was of daily importance: observing the skies and drawing the correct conclusions from these observations was really important, in fact their (Q32survival depended on it. It isn’t known when people first started to observe the skies, but at around 650 BC, the Babylonians produced the first short-range weather forecasts, based on their observations of (Q33clouds and other phenomena. The Chinese also recognised weather patterns, and by 300 BC, astronomers had developed a calendar which divided the year into 24 (Q34festivals, each associated with a different weather phenomenon.

The ancient Greeks were the first to develop a more scientific approach to explaining the weather. The work of the philosopher and scientist Aristotle, in the fourth century BC, is especially noteworthy, as his ideas held sway for nearly 2,000 years. In 340 BC, he wrote a book in which he attempted to account for the formation of rain, clouds, wind and storms. He also described celestial phenomena such as haloes – that is, bright circles of light around the sun, the moon and bright stars – and (Q35comets. Many of his observations were surprisingly accurate. For example, he believed that heat could cause water to evaporate. But he also jumped to quite a few wrong conclusions, such as that winds are breathed out by the Earth. Errors like this were rectified from the Renaissance onwards.

———————–

For nearly 2,000 years, Aristotle’s work was accepted as the chief authority on weather theory. Alongside this, though, in the Middle Ages weather observations were passed on in the form of proverbs, such as ‘Red (Q36sky at night, shepherd’s delight; red sky in the morning, shepherd’s warning’. Many of these are based on very good observations and are accurate, as contemporary meteorologists have discovered.

For centuries, any attempt to forecast the weather could only be based on personal observation, but in the fifteenth century scientists began to see the need for (Q37instruments. Until then, the only ones available were weather vanes – to determine the wind direction – and early versions of rain gauges. One of the first, invented in the fifteenth century, was a hygrometer, which measured humidity. This was one of many inventions that contributed to the development of weather forecasting.

In 1592, the Italian scientist and inventor Galileo developed the world’s first (Q38thermometer. His student Torricelli later invented the barometer, which allowed people to measure atmospheric pressure. In 1648, the French philosopher Pascal proved that pressure decreases with altitude. This discovery was verified by English astronomer Halley in 1686, and Halley was also the first person to map trade winds.

This increasing ability to measure factors related to weather helped scientists to understand the atmosphere and its processes better, and they started collecting weather observation data systematically. In the eighteenth century, the scientist and politician Benjamin Franklin carried out work on electricity and lightning in particular, but he was also very interested in weather and studied it throughout most of his life. It was Franklin who discovered that (Q39storms generally travel from west to east.

In addition to new meteorological instruments, other developments contributed to our understanding of the atmosphere. People in different locations began to keep records, and in the mid-nineteenth century, the invention of the (Q40telegraph made it possible for these records to be collated. This led, by the end of the nineteenth century, to the first weather services.

It was not until the early twentieth century that mathematics and physics became part of meteorology, and we’ll continue from that point next week.

 

Trong loạt bài giảng về lịch sử dự báo thời tiết này, tôi sẽ bắt đầu bằng việc xem xét lịch sử ban đầu của nó - đó sẽ là chủ đề của bài nói chuyện hôm nay.

 

Được rồi, vậy chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách quay ngược lại hàng ngàn năm. Hầu hết các nền văn hóa cổ xưa đều có các vị thần thời tiết, và các thảm họa thời tiết, chẳng hạn như lũ lụt, đóng một vai trò quan trọng trong nhiều huyền thoại về sự sáng tạo. Nói chung, thời tiết được cho là do ý muốn bất chợt của các vị thần, như nhiều loại vị thần thời tiết trong các nền văn hóa khác nhau đã cho thấy. Ví dụ, có thần mặt trời Ra của Ai Cập và Thor, thần sấm sét của người Bắc Âu. Nhiều nền văn minh cổ đại đã phát triển các nghi thức như điệu múa (Q31) để khiến các vị thần thời tiết có thiện cảm với họ.

 

Nhưng thời tiết có tầm quan trọng hàng ngày: việc quan sát bầu trời và rút ra kết luận chính xác từ những quan sát này thực sự quan trọng, trên thực tế, sự sống sót (Q32) của họ phụ thuộc vào điều đó. Người ta không biết con người bắt đầu quan sát bầu trời từ khi nào, nhưng vào khoảng năm 650 trước Công nguyên, người Babylon đã đưa ra những dự báo thời tiết ngắn hạn đầu tiên, dựa trên những quan sát của họ về các đám mây (Q33) và các hiện tượng khác. Người Trung Quốc cũng nhận ra các kiểu thời tiết và đến năm 300 trước Công nguyên, các nhà thiên văn học đã phát triển một loại lịch chia năm thành 24 lễ hội (Q34), mỗi lễ hội gắn liền với một hiện tượng thời tiết khác nhau.

 

Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển cách tiếp cận khoa học hơn để giải thích thời tiết. Công trình của triết gia và nhà khoa học Aristotle vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đặc biệt đáng chú ý vì các ý tưởng của ông đã thống trị trong gần 2.000 năm. Vào năm 340 trước Công nguyên, ông đã viết một cuốn sách trong đó ông cố gắng giải thích sự hình thành của mưa, mây, gió và bão. Ông cũng mô tả các hiện tượng thiên thể như quầng sáng – nghĩa là những vòng tròn ánh sáng xung quanh mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao sáng – và sao chổi (Q35). Nhiều quan sát của ông chính xác một cách đáng ngạc nhiên. Ví dụ, ông tin rằng nhiệt có thể làm nước bay hơi. Nhưng ông cũng đưa ra khá nhiều kết luận sai lầm, chẳng hạn như gió được Trái đất thở ra. Những lỗi như thế này đã được sửa chữa từ thời Phục hưng trở đi.

 

———————–

 

Trong gần 2.000 năm, công trình của Aristotle đã được công nhận là cơ quan chính về lý thuyết thời tiết. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vào thời Trung cổ, việc quan sát thời tiết đã được truyền lại dưới dạng tục ngữ, chẳng hạn như 'Bầu trời đỏ (Q36) vào ban đêm, niềm vui của người chăn cừu; bầu trời đỏ vào buổi sáng, lời cảnh báo của người chăn cừu'. Nhiều trong số này dựa trên những quan sát rất tốt và chính xác, như các nhà khí tượng học đương đại đã phát hiện ra.

 

Trong nhiều thế kỷ, mọi nỗ lực dự báo thời tiết chỉ có thể dựa trên quan sát cá nhân, nhưng vào thế kỷ 15, các nhà khoa học bắt đầu nhận thấy sự cần thiết của thiết bị (Q37). Cho đến lúc đó, những thứ duy nhất có sẵn là cánh gió thời tiết – để xác định hướng gió – và các phiên bản đầu tiên của máy đo mưa. Một trong những thiết bị đầu tiên được phát minh vào thế kỷ 15 là máy đo độ ẩm để đo độ ẩm. Đây là một trong nhiều phát minh góp phần vào sự phát triển của ngành dự báo thời tiết.

 

Năm 1592, nhà khoa học và nhà phát minh người Ý Galileo đã phát triển nhiệt kế đầu tiên trên thế giới (Q38). Học trò của ông là Torricelli sau này đã phát minh ra phong vũ biểu, cho phép người ta đo áp suất khí quyển. Năm 1648, triết gia người Pháp Pascal đã chứng minh rằng áp suất giảm theo độ cao. Phát hiện này đã được nhà thiên văn học người Anh Halley xác nhận vào năm 1686 và Halley cũng là người đầu tiên lập bản đồ gió mậu dịch.

 

Khả năng đo lường các yếu tố liên quan đến thời tiết ngày càng tăng này đã giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về bầu khí quyển và các quá trình của nó, đồng thời họ bắt đầu thu thập dữ liệu quan sát thời tiết một cách có hệ thống. Vào thế kỷ 18, nhà khoa học và chính trị gia Benjamin Franklin đã tiến hành nghiên cứu về điện và sét nói riêng, nhưng ông cũng rất quan tâm đến thời tiết và nghiên cứu nó trong suốt cuộc đời mình. Franklin là người đã phát hiện ra rằng các cơn bão (Q39) thường di chuyển từ tây sang đông.

 

Ngoài các công cụ khí tượng mới, những phát triển khác cũng góp phần nâng cao hiểu biết của chúng ta về khí quyển. Người dân ở những địa điểm khác nhau bắt đầu lưu giữ hồ sơ, và vào giữa thế kỷ 19, việc phát minh ra máy điện báo (Q40) đã giúp những hồ sơ này có thể được đối chiếu. Điều này đã dẫn đến sự ra đời của các dịch vụ thời tiết đầu tiên vào cuối thế kỷ 19.

 

Phải đến đầu thế kỷ XX, toán học và vật lý mới trở thành một phần của khí tượng học, và chúng ta sẽ tiếp tục từ thời điểm đó vào tuần tới.

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *