Read more »
The tables below give information
about sales of Fairtrade-labelled coffee and bananas in 1999 and 2004 in five
European countries.
Summarise the information by
selecting and reporting the main features, and make comparisons where relevant.
PHÂN TÍCH
Cấu trúc bài viết
Introduction: Paraphrase lại đầu bài
sales = the amount / quantity of
money earned from selling …
in five European countries = in five
nations in Europe
Overview: Hai đặc điểm chính của biểu đồ
là gì?
Sales từ hai loại hàng hoá ở các
quốc gia đều tăng lên, ngoại trừ lượng sales của banana ở hai quốc gia Sweden
và Denmark
Nước UK thường có lượng sales cao
nhất
Body paragraph 1: Mô tả chi tiết số liệu bảng
đầu tiên: cà phê.
Switzerland cao nhất vào năm 1999
nhưng UK cao nhất vào năm 2004
3 quốc gia còn lại số lượng không
chênh lệch nhiều (0.8 – 1.8) và đều tăng nhẹ (1 khoảng 0.2-0.3) sau khoảng thời
gian 5 năm
Body paragraph 2: Mô tả số liệu bảng thứ 2:
chuối
Giống như cafe, UK cao nhất vào năm
1999 và cũng đồng thời tăng gấp 3 sau 5 năm
Switzerland và Belgium tăng nhẹ sau
giai đoạn mô tả
Sweden bà Denmark ngược lại, giảm
nhẹ sau giai đoạn mô tả
BÀI THAM KHẢO
The
tables compare the amounts of money gained from selling coffee and bananas in
two years, 1999 and 2004 in five countries in Europe. Overall,
sales of those goods mostly increased between two years, except for the
figures for bananas in Sweden and Denmark. The UK earned more money from both
coffee and bananas than any other country in 2004. Looking
at coffee’s turnover, Switzerland earned 3 million euros from selling this
commodity in 1999, followed by around 1.5 and 1.8 million euros in the UK and
Denmark respectively. The lowest figure was recorded in Sweden at that time,
with 0.8 million euros. After five years, the UK became the biggest earner
from purchasing coffee, with its figure reaching 20 million euros. The other
data climbed by about 0.2 to 3 million euros only. Regarding
bananas’ sales, the UK always ranked top, recording 15 million euros in 1999
which rose threefold after five years. Switzerland and Belgium also
experienced growth in their sales, to 5.5 and 4 respectively, but the
opposite was true for Sweden and Denmark whose figures decreased by about 1
million euro over the period. |
Bảng
trên so sánh doanh thu từ cà phê và chuối trong hai năm, 1999 và 2004 ở năm
quốc gia ở châu Âu. Nhìn
chung, doanh thu của những mặt hàng này chủ yếu tăng, ngoại trừ doanh thu từ
chuối ở Thụy Điển và Đan Mạch. Anh thu lợi nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác
từ 2 mặt hàng này trong năm 2004. Nhìn
vào doanh thu của cà phê, Thụy Sĩ kiếm được 3 triệu euro từ việc bán hàng hóa
này vào năm 1999, tiếp theo là khoảng 1,5 và 1,8 triệu euro ở Anh và Đan
Mạch. Con số thấp nhất được ghi nhận vào thời điểm đó là ở Thụy Điển, với 0,8
triệu euro. Sau năm năm, Vương quốc Anh trở thành quốc gia có thu nhập
lớn nhất từ việc mua cà phê, với con số đạt 20 triệu euro. Các các nước
khác chỉ tăng khoảng 0,2 đến 3 triệu euro. Về
doanh số bán chuối, Anh luôn đứng đầu, thu về 15 triệu euro năm 1999, tăng
gấp 3 lần sau 5 năm. Thụy Sĩ và Bỉ cũng có mức tăng trưởng doanh thu, tương
ứng là 5,5 và 4, nhưng ngược lại, Thụy Điển và Đan Mạch có con số giảm khoảng
1 triệu euro trong giai đoạn này. |